Thứ Sáu, 20 tháng 8, 2010

(1) Liên hệ thực trạng lạm phát VN năm 2007 đến nay (mức LP, nguyên nhân, hậu quả, các giải pháp NHNN đã và đang áp dụng để kiểm soát LP)

Mức lạm phát:
LP là 1 trong 4 yếu tố quan trọng nhất của mọi QG (tăng trưởng cao, LP thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Tình hình LP hiện nay ở VN lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng LP cho phép tối đa là 9% của mỗi QG. Năm 2007 là 12,63%, vào 3 tháng đầu năm 2008 là 9,19%, so với tháng 12/2007 cao hơn mức LP dự kiến dành cho cả năm 2008. Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống KT của CP, làm suy vong nền KT QG, bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang.

Nguyên nhân LP:
Thực trạng diễn biến hết sức phức tạp của LP VN hiện nay do 1 số nguyên nhân chính sau đây:
Chế độ tỷ giá hiện hành là nguyên nhân cơ bản của LP ở VN:
Năm 2007, nền KT VN tăng trưởng đạt 8,48%, cao hơn mức trung bình 5 năm giai đoạn 2003-2007 (8%/năm). Tuy nhiên, vào những tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008, cùng với đà suy thoái KT TG, đồng USD mất giá, giá dầu thô tăng cao, giá cả lương thực và nguyên nhiên vật liệu tăng đột biến cộng với tác động của thiên tai, dịch bệnh đã làm cho nền KT VN bộc lộ những nhược điểm cố hữu của 1 nền KT đang trong qtr chuyển dổi. Các ptich đã chứng minh nhược điểm của 1 chế độ tỷ giá neo với đồng USD và mất cân đối cơ cấu KT gây ra tình trạng “thắt cổ chai” là nguyên nhân cơ bản của LP.
LP trong KT học được hiểu là sự tăng giá chung. LP thường có nguyên nhân từ tiền tệ do NHNN cung ứng quá nhiều tiền trong lưu thông. LP cũng có thể có nguyên nhân từ việc tăng giá do cầu tăng mạnh đột biến lớn hơn khả năng SX của nền KT tạo ra LP do cầu kéo. CFSX gia tăng cũng đẩy giá hàng hóa lên cao tạo ra LP do CF đẩy. Có thể nói LP ở VN hiện nay hội tụ đủ các nguyên nhân do cả cầu kéo lẫn CP đẩy và tiền tệ.
Tổng cầu tăng nóng vượt quá khả năng của 1 nền KT còn tồn tại nhiều vấn đề “thắt cổ chai” liên quan tới hạ tầng KT, XH và PL đã làm gia tăng áp lực LP: tốc độ tăng trưởng KT ổn định trong nhiều năm qua và việc VN gia nhập WTO đầu năm 2007 đã tạo thêm động lực phát triển cho nền KT. Sự mở rộng mạnh mẽ của nhu cầu chi tiêu, đầu tư tư nhân và công cộng là nhân tố làm cho tổng cầu tăng nóng.
Giá cả các loại hàng hóa trên TG tăng nhanh, tỷ lệ nghịch với sự mất giá danh nghĩa của đồng USD đẩy mặt bằng giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào, đặc biệt là dầu thô. Tốc độ tăng giá năng lượng, đặc biệt là giá lương thực trong nửa cuối năm 2007 và đầu năm 2008 là nguyên nhân dẫn tới tình trạng LP trên diện rộng ở tất cả các nước trên TG. Đến cuối năm 2007, LP so với cùng kỳ năm trước của VN là 12,63% và đến cuối tháng 4/2008, tỷ lệ này đã là 21,42%.
Tác động của LP do CF đẩy ở VN thường cao hơn gấp đôi các nước khác trong khu vực là do VN thực thi chính sách neo giá đồng nội tệ với USD. Các nước trong khu vực như Malaysia và Thái Lan theo đuổi chính sách thả nổi có điều tiết đồng nội tệ và đã điều chỉnh lên giá nội tệ theo giá trị danh nghĩa của đồng USD trong tg qua. Kể cả TQ là nước có nhiều điểm tương đồng với VN trong việc thực thi chính sách tỷ giá cũng đã điều chỉnh lên giá danh nghĩa nội tệ trong tg qua. Kết quả là, trong khoảng tg từ tháng 1/2004 đến nay, đồng VN có xu hướng mất giá danh nghĩa, trong khi đồng tiền của các nước khác trong khu vực có xu hướng lên giá danh nghĩa so với đồng USD.

(2) Liên hệ thực trạng lạm phát VN năm 2007 đến nay (mức LP, nguyên nhân, hậu quả, các giải pháp NHNN đã và đang áp dụng để kiểm soát LP)

Giá hàng hóa, nguyên liệu trên TG tăng mạnh trong tg gần đây là do tăng trưởng cầu TG tăng nhanh hơn tốc độ tăng cung với bằng chứng là lượng hàng tồn kho hàng hóa nguyên liệu giảm mạnh. Đồng USD mất giá danh nghĩa làm cho giá hàng hóa tính theo đồng tiền khác như EUR, GBP giảm tương đối và càng khuyến khích cầu. Bên cạnh đó, các quỹ đầu tư trên TG gia tăng mua hàng hóa để phòng vệ rủi ro mất giá USD. Kq là giá hàng hóa nguyên liệu tăng lên cao hơn mức bt, tăng do tăng cầu và tăng do USD mất giá.
Các nước trong khu vực có điều chỉnh nâng giá nội tệ tương ức với mức mất giá danh nghĩa của Mỹ (đo bằng chỉ số tỷ giá hiệu lực danh nghĩa NEER) sẽ điều chỉnh giảm được tđ tăng giá do mất giá đồng USD. Thái Lan và TQ nhờ chính sách tỷ giá linh hoạt giảm được tđ sốc giá lương thực từ nước ngoài. VN thi hành chính sách neo tỷ giá và vì vậy đã NK LP giá lương thực theo USD. Đây có thể là nguyên nhân chính làm cho LP ở VN cao hơn các nước trong khu vực.
Phương pháp tính chỉ số CPI của các nước khác với VN: các nước thường loại trừ giá lương thực, dầu mỏ ra khi tính toán CPI, ở VN theo pp tính CPI hiện nay, giá cả của nhóm hàng lương thực, thực phẩm chiếm quyền số lớn nhất, tới 47,9% trong rổ hàng hóa tính CPI nên phần đóng góp của giá lương thực thường chiếm tới 70% động thái của chí số giá tiêu dùng CPI (được coi là tỷ lệ LP). Trong quý III năm 2007, phần đóng góp của các yếu tố phi lương thực vào LP chỉ là 3,5%. Con số này là 4% cho quý IV năm 2007, và ngay cả khi LP lên tới 15,7% vào tháng 2/2008, thì lương thực thực phẩm góp tới 10,8%. Tháng 3 và 4, tỷ lệ LP so với cùng kỳ năm trước là 19,4% và 21,4%, phần đóng góp của LP giá lương thực, thực phẩm là 13,1% và 14,6%.
Yếu tố tiền tệ với tốc độ tăng trưởng tín dụng của VN tăng quá nhanh trong những năm vừa qua cũng là nguyên nhân gây ra LP ở VN. Tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng năm 2007 tăng gấp đôi so với tốc độ tăng của năm 2006. Nguyên nhân dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng đột biến là do tổng lượng ngoại tệ ròng chảy vào nền KT trong năm 2007 ước chừng lên tới 22 tỷ USD, tương đương 30% GDP. Để duy trì tỷ giá USD, NHNN đã tăng dự trữ ngoại hối từ 11,5 tỷ USD (năm 2006) lên 21,6 tỷ USD (năm 2007) và đẩy 1 lượng lớn nội tệ ra thị trường. Tăng trưởng ấn tượng của VN trong tg qua kéo theo những hiệu ứng phụ như tăng trưởng quá nóng ở 1 số bp của nền KT, tăng đột biến kim ngạch NK, sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng, nhân lực chất lượng cao. Dòng tiền chảy vào VN mạnh gây bùng nổ nhu cầu tiêu dùng, XD và bùng nổ TTCK giữa năm 2007 và bong bóng thị trường BĐS tg gần đây.
Hậu quả LP:
- LP tđ xấu đến tình hình tăng trưởng KT XH: LP làm giảm trầm trọng tốc độ tăng trưởng GDP vì nó làm cho người dân nghèo thêm, kiềm chế SX trong khối DN, thực tế trong 3 tháng đầu năm 2008 GDP chỉ tăng 7,5% so với cùng kỳ năm ngoái trong khi năm 2007 là 7,8%.
LP khiến cho đồng nội tệ mất giá và làm cho tình trạng nhập siêu ngày càng trở nên trầm trọng làm thâm hụt cán cân thanh toán. LP đẩy mức lãi suất tăng cao làm tăng tiết kiệm giảm đầu tư dẫn đến giảm tăng trưởng KT. Mức tăng cao của LP đã dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các mặt hàng, sự mất giá của các khoản tiền tiết kiệm, ko khuyến khích đầu tư và làm hạn chế tăng trưởng KT, từ đó có thể dẫn đến những vấn đề XH.
- Ảnh hưởng đến đời sống của các tầng lớp dân cư: người dân nhất là những người làm công ăn lương, những hộ nghèo phải chịu sự tđ trực tiếp nhất của LP trong cơn bão tăng giá, sức td của người dân giảm. LP cũng làm giảm việc làm cho người dân trong trung và dài hạn. Giá lương thực tăng nhanh hơn so với mức tăng của cả rổ hàng hóa ảnh hưởng đến người nghèo, nhất là người nghèo đô thị, những người sd phần lớn thu nhập cho mua hàng hóa thực phẩm mà ko phải cho GD hay y tế và ko có cơ hội tiếp cận lương thực dễ dàng như người nghèo nông thôn. Hơn nữa, người nghèo nông thôn có khả năng hưởng lợi từ việc mua bán lương thực trong bối cảnh tăng giá, tạo yếu tố triệt tiêu ảnh hưởng LP.
- Ảnh hưởng nhiều đến khối DN: LP cũng gây ra tình trạng thiếu tiền vì các DN ko khai thác được nguồn tín dụng cho việc duy trì SX của mình. Do đó, số lượng công việc cho người dân làm cũng giảm thiểu trong trung và dài hạn.

(3) Liên hệ thực trạng lạm phát VN năm 2007 đến nay (mức LP, nguyên nhân, hậu quả, các giải pháp NHNN đã và đang áp dụng để kiểm soát LP)

Các giải pháp NHNN đã và đang áp dụng để kiểm soát LP:
Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt: cho dù do nhiều nguyên nhân nhưng LP luôn có nguyên nhân tiền tệ. Mức cung tiền trong lưu thông và dư nợ tăng liên tục từ năm 2004 qua các năm và tăng cao trong năm 2007 là nguyên nhân gây ra LP. Nhận thức được tình hình đó, CP chủ trương kiểm soát chặt chẽ tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng ngay từ đầu năm. NHNN thông qua việc chủ động, linh hoạt sd hợp lý các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường để thực hiện bằng được yêu cầu này. Điều cần nhấn mạnh là trong khi kiên quyết thắt chặt tiền tệ, cần đảm bảo tính thanh khoản của nền KT và hoạt động của các NH, tổ chức tín dụng tạo đk cho SX hàng hóa và XK pt.
+ Tăng dự trữ bắt buộc: năm 2007 chứng kiến sự tăng dự trữ bắt buộc lớn trong nhiều năm. Tỷ lệ DTBB tăng gấp đôi ở tất cả các loại tiền gửi (ngoại tệ và VND) và kỳ han. Để kiềm chế LP đầu năm 2008 NHNN lại tiếp tục tăng tỷ lệ DTBB, theo nhận định của các chuyên gia và tổ chức tài chính quốc tế thì tỷ lệ DTBB có thể lên tới 15% hoặc 17% vào cuối năm.
+ Tăng lãi suất ở tất cả các loại lãi suất: lãi suất cơ bản là 8,75% áp dụng từ ngày 1/3/2008, lãi suất tái cấp vốn 7,5% và lãi suất chiết khấu 6,0% áp dụng từ ngày 1/2/2008.
+ Thực hiện bán tín phiếu: ngày 13/2 NHNN lại ra quyết định buộc các NHTM phải mua 1 lượng tín phiếu trị giá 20.300 tỷ đồng, nhu cầu tiền mặt ngay lập tức lên tới 40.000 tỷ đồng đã làm náo loạn các tổ chức tín dụng.
+ Ngày 25/3 NHNN yêu cầu thu về 52.000 tỷ đồng cho ngân sách đang được đem cho các NH quốc doanh vay với lãi suất 3%/năm.
+ Hiệp hội các NHVN quyết định các NH ko được để tăng trưởng tín dụng qua 30% đồng thời quy định lãi suất cho vay ko vượt quá 150% lãi suất cơ bản.
Cắt giảm đầu tư công và CF thường xuyên của cq sd ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các DNNN, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách: Đầu tư từ nguồn ngân sách NN và đầu tư của DNNN hiện chiếm khoảng 45% tổng đầu tư XH, cắt giảm nguồn đầu tư này sẽ làm giảm áp lực về cầu, giảm nhập siêu, góp phần nâng cao hiệu quả của nền KT, quy định cụ thể tỷ lệ vốn đầu tư và CF hành chính phải cắt giảm và yêu cầu các bộ, địa phương xác định các công trình kém hiệu quả, các công trình chưa thực sự cần thiết để có sự điều chỉnh thích hợp, phân bổ lại và cân đối nguồn vốn, rà soát chặt chẽ các hạng mục đầu tư của DNNN.
Tập trung sức pt SX công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm: hiện nay tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn rất lớn nhất là khi VN là thành viên đầy đủ của WTO, đầu tư nước ngoài và đầu tư tư nhân tăng mạnh, thị trường XK được mở rộng, pt SX là giải pháp gốc, vừa tăng nguồn cung cho thị trường trong nước và XK, góp phần kiềm chế LP, giảm nhập siêu thúc đẩy KT.
Bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hóa, đẩy mạnh XK, giảm nhập siêu: cân đối cung cầu về hàng hóa, tránh tình trạng đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ đối với các mặt hàng thiết yếu như lương thực, thuốc, xăng dầu, sắt thép, VLXD, phân bón…, thực hiện cơ chế giá thị trường, xóa bỏ bao cấp qua giá. Trong đk USD giảm giá so với đồng tiền các nước là thị trường XK lớn của nước ta, việc neo giữ quá lâu tỷ giá hối đoái giữa VND và USD ko phản ánh đúng quan hệ thực trên thị trường tiền tệ do vậy chủ trương áp dụng tỷ giá linh hoạt với biên độ thích hợp, phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường, giúp kiềm chế LP nhưng ko ảnh hưởng lớn đến XK, chuyển đổi ngoại tệ diễn ra thuận lợi. NHNN đảm bảo đủ vốn và mua hết ngoại tệ cho các DN làm hàng XK, xử lý các ách tắc tín dụng XK cho từng trường hợp cụ thể, tăng cường hỗ trợ công tác xúc tiến TM đối với hàng XK, cải cách thủ tục hành chính liên quan đến hđ XK để giảm CF cho DN, áp dụng các hàng rào kỹ thuật và các bp để giảm nhập siêu, tăng thuế những mặt hàng ko thiết yếu.
Triệt để tiết kiệm trong SX và td.
Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát và chấp hành PL NN về giá, ko để xảy ra tình trạng lạm dụng các biến động trên thị trường để đầu cơ, nâng giá nhất là các mặt hàng thiết yếu cho SX và td.
Mở rộng thực hiện chính sách an sinh XH.
Tạo đk cho DN tiếp cận nguồn vốn NH, nhưng vẫn phải tiếp tục kiểm soát chất lượng, để tránh những hiệu ứng phụ về an toàn hệ thống NH. Đồng thời, thông qua việc điều hành linh hoạt các công cụ của CSTT và chỉ đạo các TCTD tập trung vốn vào các lĩnh vực SX có hiệu quả như lĩnh vực NN, nông thôn, XNK các mặt hàng thiết yếu, các DN vừa và nhỏ, các hộ nghèo… góp phần thúc đẩy tăng trưởng KT bền vững. Việc cho vay lĩnh vực phi SX, như cho vay tiêu dùng để kích cầu, trong đk như hiện nay, các NHTM cũng cần đảm bảo khả năng thu hồi vốn từ các khoản vay này.

(1) Diễn biến lãi suất thị trường từ đầu năm 2008 đến nay, nguyên nhân dẫn đến sự biến động đó.

Năm 2008, thị trường NH trong nước đã trải qua những biến động chưa từng có về lãi suất, tỷ giá…
Tính chung cả năm, NHNN đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3 tháng cuối năm (2 lần giảm đối với dự trữ bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc có 5 lần điều chỉnh (3 lần tăng, 2 lần giảm). Ngày 17/3 NHNN phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc và 2 lần điều chỉnh lãi suất cho tín phiếu, 1 lần tăng từ 7,8% lên 13%, tháng 12 giảm xuống còn 4,5%. Lần đầu tiên kể từ 1/12/2005, lãi suất cơ bản được điều chỉnh tăng, từ 8,25% lên 8,75% vào 1/2/2008. Đặc biệt, trong lần điều chỉnh ngày 19/5 (lên 12%), ngoài sự điều chỉnh trên, NHNN chính thức áp cơ chế lãi suất trần trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng (ko quá 150% lãi suất cơ bản theo quy định của Bộ luật Dân sự).
Từ thời điểm đó, hoạt động cho vay của các NH có sự thay đổi căn bản; khái niệm “lãi suất cho vay tối đa” xuất hiện trên thị trường, đồng nghĩa với những mức lãi suất cho vay từ 22%-25% trước đó được loại bỏ cùng với các loại phí thu thêm; trần lãi suất huy động thỏa thuận giữa các thành viên Hiệp hội NH VN có từ những năm trước cũng bị xóa bỏ.
Mấy ngày cuối tháng 1/2008, lãi suất qua đêm thị trường liên NH vọt lên tới 27% trong khi đầu tháng, thị trường này đã bắt đầu với lãi suất 6,52%. Sở dĩ lãi suất qua đêm cao như vậy bởi các NH phải nhanh chóng tập trung 1 lượng tiền mặt lớn nhằm đáp ứng quy định tăng dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%. Ngày 13/2 NHNN lại ra quyết định buộc các NHTM phải mua 1 lượng tín phiếu trị giá 20.300 tỷ đồng, nhu cầu tiền mặt ngay lập tức lên tới hơn 40.000 tỷ đồng làm náo loạn các tổ chức tín dụng.
Các NH cổ phần buộc lòng phải tăng lãi suất huy động. Sự chênh lệch về lãi suất đã khiến cho các tổng công ty NN rút tiền từ các NHQD lãi suất thấp gửi sang NH cổ phần. Chỉ trong ngày 18/2, các tổng cty NN đã rút ra hơn 4000 tỷ đồng. Các NHQD vốn vẫn dùng nguồn tiền lãi suất thấp từ NN đem cho các NH nhỏ vay lại, nay thiếu tiền đột ngột vội vàng ép các NH này. Cơn khát tiền mặt toàn hệ thống đã đẩy lãi suất thị trường liên NH trong những ngày đó có khi lên tới 40%.
Trên thị trường tiền tệ các NHTM liên tục bám đuổi nhau tăng lãi suất huy động vốn nội tệ, chỉ trong vòng 1 tuần 1 số NHTM điều chỉnh lãi suất tới 2-3 lần. Ngày 20/2 Sea Bank công bố biểu lãi suất với mức lãi suất kỷ lục 12%/năm, ngày 21/2 SHB đưa ra chương trình siêu lãi suất với mức lãi suất cao nhất lên tới 12,5%/năm cho kỳ hạn 1 tháng, ngày 22/2 SCB đưa ra mức lãi suất cao hơn huy động vốn kỳ hạn 12 tháng với lãi suất 13,5%/năm

(2) Diễn biến lãi suất thị trường từ đầu năm 2008 đến nay, nguyên nhân dẫn đến sự biến động đó.

Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất liên NH tăng cao chóng mặt, đặc biệt lãi suất liên NH ngày 15/2/2008 lên tới 30,1%/năm, ngày 18/2/2008 lên tới 33%/năm, ngày 19/2/2008 lên tới 43%/năm.
Lãi suất thị trường mở qua đấu thầu giấy tờ có giá ngắn hạn tại NHNN lên tới 10%, thậm chí 15%/năm cho kỳ hạn vay 2 tuần, gấp 2-3 lần mức lãi suất bình thường. Ngày 22/2/2008, NHNN phải bơm thêm 6000 tỷ đồng qua nghiệp vụ thị trường mở cho 1 số NHTM trúng thầu với lãi suất tới 13%/năm cho kỳ hạn 14 ngày, giảm 2% so với mức 15%/năm của ngày 21/2/2008.
Ngày 19/5/2008, các TCTD ấn định lãi suất huy động và cho vay bằng VND trên cơ sở lãi suất cơ bản là 12%/năm, lãi suất cho vay bằng VND tối đa là 18%/năm.
Việc điều chỉnh mức lãi suất cơ bản lần này lên 12%/năm được xác định dựa trên 3 cơ chế là: cơ sở lãi suất thị trường nội tệ liên NH, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của NHNN, lãi suất huy động đầu vào của TCTD; xu hướng biến động cung - cầu vốn; mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ trong ngắn hạn.
Hiện nay, do mặt bằng lãi suất thị trường tăng so với tháng 5/2008, đồng thời, dự báo xu hướng biến động trong tg tới của LP, cung – cầu vốn thị trường, tỷ giá…
Để tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ “thắt chặt” nhằm kiếm chế LP, ổn định KT vĩ mô, ngày 10/6/2008 Thống đốc NHNN đã ban hành các Quyết định về việc điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 12%/năm tăng lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 13%/năm lên 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 11%/năm tăng lên 13%/năm và có hiệu lực thực hiện kể từ ngày 11/6/2008.
Chính sách thắt chặt tiền tệ đầu năm của NHNN gắn liền với sự căng thẳng về thanh khoản của các NHTM. Lãi suất huy động VND có kỳ biến động mạnh nhất từ trước tới nay. Cuộc chạy đua bùng phát trong tháng 5 và tạo những đỉnh điểm nóng sốt trong tháng 6. Trên thị trường liên NH, lãi suất ghi nhận kỷ lục “treo” tới 43%/năm; nhiều thành viên đồng loạt đẩy mức huy động trong dân cư lên tới trên 19%/năm, cá biết có trường hợp áp tới 20%/năm.
Đó cũng là thời điểm mà hđ cho vay của nhiều NHTM cầm chừng, DN vay vốn khó khăn cả về lãi suất cao lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín dụng td gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng trưởng tín dụng bước vào vùng thấp nhất trong năm (liên tục tăng dưới 1%/tháng; cả năm ước chỉ tăng khoảng 21% thay vì mức dự kiến khống chế 30%).
Ngược lại, từ cuối tháng 7 cùng với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của NHNN với nguồn vốn khả dụng của hệ thống tăng mạnh lên, lãi suất trên thị trường bắt đầu có đợt thoái trào. Đặc biệt từ tháng 9 đến cuối năm, gắn với những điều chỉnh các lãi suất chủ chốt của NHNN, cả lãi suất huy động và cho vay dồn dập giảm; ít nhất có 8 đợt điều chỉnh trên diện rộng. Từ đỉnh điểm trên 19%/năm, lãi suất huy động VND rút về quanh mốc 8%/năm; lãi suất cho vay tối đa từ 21%/năm về còn 12,75%/năm.
Lãi suất huy động tăng đã khiến cho các NH phải tăng lãi suất cho vay. Nhiều NH đang buộc khách hàng chấp nhận lãi suất cho vay 24-25%. Các DN cũng đang khát tiền măt, tình trạng bán hàng dưới giá hoặc vay với lãi suất cao khiến CPSX tăng đột biến dẫn đến LP 3 tháng đầu năm lên tới 9,19%. Các bp của NHNN nói là chống LP nhưng đã trực tiếp làm mất giá đồng tiền khi đặt các NH trong tình thế phải nâng lãi suất lên cao.
Các NHTM đã ban hành các quyết định lãi suất cho vay bằng VND áp dụng từ ngày 5/12/2008 với mức lãi suất cho vay thấp nhất là 0,83%/tháng (10%/năm) và mức lãi suất cho vay phổ biến là 1,08%/tháng-1,17%/tháng (13%-14%/năm), lãi suất cho vay cao nhất là 1,25%/tháng (15%/năm). Mức lãi suất này tương đương với mức lãi suất cuối năm 2007 và thấp nhất trong năm 2008 (giảm 6-11%/năm so với thời điểm cao nhất cuối tháng 6/2008).

(3) Diễn biến lãi suất thị trường từ đầu năm 2008 đến nay, nguyên nhân dẫn đến sự biến động đó.

Bên cạnh việc điều chỉnh giảm lãi suất cho vay, các NHTM NN và NHTM cổ phần điều chỉnh giảm lãi suất huy động bằng VND, với mức giảm khoảng 1-2%/năm; cụ thể là: Mức lãi suất huy động dưới 3 tháng giảm từ 10%/năm xuống 8-9%/năm, kỳ hạn từ 3 đến 12 tháng giảm từ 11%/năm xuống 9-10%/năm, kỳ hạn 12 tháng giảm từ 12%/năm xuống 10-10,5%/năm và trên 12 tháng từ 10%/năm xuống 8-9%/năm.
Phản ứng bước đầu của thị trường tiền tệ và hoạt động NH là khá tích cực đối với các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN VN: Ngày 5/12/2008, lãi suất thị trường liên NH qua đêm và kỳ hạn dưới 1 tháng từ 9,5-10,5%/năm, giảm khoảng 1-1,5%/năm so với ngày 4/12/2008; Thị trường tiền tệ tiếp tục dư cung vốn khả dụng, NHNN VN tiếp tục điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở để hỗ trợ cho các NHTM quản trị tốt vốn khả dụng.
Từ trung tuần tháng 2/2009 trở lại đây, các NHTM liên tục tăng mức trả lãi để gọi vốn VND, mức lãi suất huy động VND cao nhất thuộc về Habubank là 8,4%/năm ở kỳ hạn 24 tháng, 8,2%/năm của Ocean Bank. Ghi nhận từ NHNN cho biết, mức tăng phổ biến trong tuần là từ 0,2%-0,5%/năm.
Ngoài ra, cùng với quyết định điều chỉnh tăng trực tiếp ở biểu lãi suất huy động mới, 1 số NH cả quốc doanh và cổ phần cũng vừa hẹn triển khai phát hành các đợt kỳ phiếu VND có lãi suất cao hơn lãi huy động thông thường. Theo báo cáo nhanh của các NHTM, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đến ngày 13/3/2009 đã là 144.312 tỷ đồng. So với dư nợ tính đến ngày 6/3/2009, chỉ sau 1 tuần thực hiện, dư nợ cho vay của chương trình này đã tăng 30.604 tỷ đồng (tương đương tăng 26,9%).
Hiện các NH đang gấp rút để giải ngân, DN tranh thủ mượn vốn, do thời hạn để được hưởng bù lãi suất đang trôi qua từng ngày. Và với lượng vốn đã giải ngân trên, nếu giải quyết trọn khoảng 17000 tỷ đồng bù lãi suất, vẫn còn khoảng gần 280.000 tỷ đồng dự tính cho vay trong thời gian tới. Ngoài ra, đến thời điểm này, hầu hết các NHTM đã bắt đầu mở lại hđ cho vay tiêu dùng.
Năm 2009, hầu hết các NHTM đều đã xác định chiến lược đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng. Hiện thị trường đã ghi nhận 1 số trường hợp đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng tới 50% trong năm nay. Trong khi đó, khác với hạn mức 30% trong năm 2008, năm 2009 NHNN mới chỉ định hướng dự kiến tăng khoảng 21-23% và chưa có 1 giới hạn cụ thể để khống chế.
Nguyên nhân dẫn đến sự biến động:
Do tình trạng LP năm 2007 lên đến 12,63%, 3 tháng đầu năm 2008 là 9,19% làm tăng nhu cầu tiền.
Theo NHNN, mục đích của việc tăng các mức lãi suất là nhằm tiến tới thiết lập mqh hợp lý giữa các mức lãi suất điều hành của cơ quan này với lãi suất thị trường, nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của công cụ lãi suất, phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ về điều hành chính sách tiền tệ trong năm 2008.
Hiện Luật NHNN VN quy định lãi suất là 1 trong những công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Theo đó, cơ quan này công bố và điều chỉnh 1 cách linh hoạt lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu để điều tiết tiền tệ, kiểm soát tổng phương tiện thanh toán phù hợp với mục tiêu LP và tăng trưởng KT hàng năm.
Do công tác dự báo kém dẫn đến tăng trưởng tín dụng năm 2007 là 38,7% làm tăng nhu cầu tiền.
NHTW tiếp tục tăng dự trữ bắt buộc để kiềm chế LP và làm khan hiếm vốn của NHTM.
Ngày 13/2 NHNN ra quyết định buộc các NHTM phải mua 1 lượng tín phiếu trị giá 20.300 tỷ đồng. Nhu cầu tiền mặt ngay lập tức lên tới 40.000 tỷ đồng làm náo loạn các TCTD.
Ngày 25/3, NHNN yêu cầu thu về 52.000 tỷ đồng của ngân sách đang được đem cho các NH quốc doanh vay với lãi suất 3%/năm làm đẩy lãi suất tăng cao do cung tiền giảm.

(1) Liên hệ việc sử dụng các công cụ CSTT của NHNN VN từ năm 2008 đến nay

Trước bối cảnh phức tạp của KT TG và trong nước trong 6 tháng đầu năm 2008, NHNN VN đã có những phản ứng kịp thời, sử dụng đồng bộ và quyết liệt về điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế LP có hiệu quả và ổn định KT vĩ mô. Các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt để hút tiền từ lưu thông nhưng vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho nền KT, điều hành linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu thị trường. NHNN đã tăng cường công tác thanh tra, giám sát hđ của thị trường ngoại hối và của các TCTD, hạn chế tăng trưởng tín dụng quá nóng có thể gây mất an toàn hệ thống của các TCTD. Đến cuối năm 2008, để chủ động ngăn chặn suy giảm KT, chính sách tiền tệ thắt chặt được chuyển dần sang nởi lỏng 1 cách thận trọng.
Tính chung cả năm, NHNN đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh tương ứng. Cơ chế điều hành tỷ giá ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/-0,75% lên +/-3%; tỷ giá bình quân liên NH có 2 lần điều chỉnh mạnh, vào tháng 6 và cuối tháng 12. NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, kết hợp hài hòa, linh hoạt giữa điều hành tỷ giá và lãi suất; tăng cường phối hợp với các bộ, ngành để đảm bảo nhất quán giữa các chính sách KT vĩ mô, nhất là giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa; nâng cao hiệu quả công tác thống kê, dự báo, phản ứng kịp thời trước những diễn biến KT, tiền tệ trong nước và quốc tế; bảo đảm tính thanh khoản của các TCTD…
NHNN đã điều hành CSTT theo hướng thắt chặt để kiềm chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng nhằm đảm bảo mức tăng tổng dư nợ tín dụng của hệ thống NH ko vượt quá 30%.
Để thực hiện mục tiêu này, NHNN đề ra những giải pháp và biện pháp cụ thể:
- Chỉ đạo các TCTD kiểm soát chặt chẽ những lĩnh vực cho vay có rủi ro cao như đầu tư KD CK, BĐS thông qua việc siết chặt lại các đk được cho vay và khống chế tổng dư nợ cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư KD CK ko được vượt quá 20% vốn điều lệ của TCTD; yêu cầu các TCTD khống chế tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay BĐS ở mức hợp lý so với tổng dư nợ và nguồn vốn cho vay; ban hành mới cơ chế cho vay bằng ngoại tệ của TCTD theo hướng chặt chẽ hơn nhằm hạn chế cho vay đối với nhu cầu ko nhất thiết phải sd vốn ngoại tệ.
- Sd các công cụ của CSTT như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc, thị trường mở để điều tiết lượng vốn khả dụng của các NHTM và từ đó tđ lên khả năng cung vốn NH ra thị trường theo mục đích đặt ra và thu hút mạnh tiền từ lưu thông về, cụ thể: tăng tỷ lệ DTBB, tăng khối lượng bán tín phiếu trên nghiệp vụ thị trường mở và phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc đối với các TCTD có quy mô vốn huy động bằng VND trên 1000 tỷ đồng.
- 6 tháng đầu năm 2008, NHNN đã 2 lần thay đổi các lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu theo hướng tăng lên. Điều này được thực hiện nhằm tạo hành lang lãi suất phù hợp với định hướng kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng và từng bước đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền, cụ thể:
+ Tăng lần 1: lãi suất cơ bản lên 12%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên 13%/năm, lãi suất chiết khấu lên 11%/năm.
+ Tăng lần 2: lãi suất cơ bản lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn lên 15%/năm, lãi suất chiết khấu lên 13%/năm.

(2) Liên hệ việc sử dụng các công cụ CSTT của NHNN VN từ năm 2008 đến nay

Khi đặt mục tiêu về kiểm soát mức tăng tổng dư nợ tín dụng thông qua chính sách lãi suất, NHNN hướng tới việc kiểm soát, hạn chế các đầu tư tín dụng ko hiệu quả. Bởi lẽ, việc tăng lãi suất cho vay sẽ buộc các DN, các chủ đầu tư cân nhắc, tính toán về hiệu quả KD và đầu tư. Họ sẽ phải dãn, hoãn, hay chấm dứt những hđ KD kém hiệu quả để tập trung nguồn lực (bao gồm cả tiền vay) vào các dự án hay hđ KD có hiệu quả. Và ở khía cạnh này thì việc tăng lãi suất là công cụ hữu hiệu để phân bổ nguồn lực XH và sàng lọc giữa việc KD hiệu quả và ko hiệu quả. Còn đối với các NH, chính sách siết chặt nguồn cung tiền trong hệ thống sẽ buộc các NH phải chọn lọc và thẩm định kỹ càng các dự án cho vay, đặc biệt là cho vay BĐS và đầu tư CK. Những dự án ko đầy đủ về mặt pháp lý hoặc ko hiệu quả trong tương lai sẽ ko được NH tài trợ vốn. Như vậy, chính sách thắt chặt tín dụng của NHNN chỉ buộc các NH phải tự điều chỉnh, lựa chọn các dự án vay vốn chứ ko áp đặt hay hạn chế các NH ko được cho vay, đầu tư BĐS hay CK.
Việc áp dụng đồng bộ, linh hoạt các giải pháp trên đã góp phần đưa các chỉ tiêu tiền tệ biến động theo định hướng đề ra: tổng phương tiện thanh toán được kiểm soát ở mức thấp; tốc độ tăng trưởng đầu tư cho nền KT chậm dần, từ đó tđ kiềm chế mức tăng tổng cầu và giá tiêu dùng.
Ngày 6/11/2008, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 2635/QĐ-NHNN cho phép các TCTD được phép hđ ngoại hối ấn định tỷ giá mua, bán giao ngay giữa VND và USD trong biên độ 3% so với tỷ giá bình quân liên NH, tăng 1% so với mức 2%. Biên độ tỷ giá mới sẽ được áp dụng từ ngày 7/11/2008.
Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 05/CT-NHNN ngày 9/10/2008, theo đó yêu cầu các TCTD áp dụng các bp đảm bảo an toàn, hiệu quả hđ KD, trong đó chú trọng các bp ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra do tđ của khủng hoảng tài chính và dấu hiệu suy thoái KT toàn cầu, chấp hành đúng quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hđ KD, đáp ứng vốn tín dụng cho nền KT trên cơ sở khả năng huy động vốn trong và ngoài nước, đi đối với kiểm soát chặt chẽ chất lượng tín dụng và tiếp tục điều chỉnh cơ cấu tín dụng để tập trung vốn cho các lĩnh vực SX, KD, XNK các mặt hàng thiết yếu, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn…
Như vậy, trong năm 2008, NHNN đã tập trung vào 2 mục tiêu chủ yếu là kiểm soát tổng phương tiện thanh toán ở mức hợp lý và kiểm soát dư nợ tín dụng và tính đến hết tháng 10/2008 các chỉ tiêu này lần lượt đạt là 10,59% (cùng kỳ năm ngoái tăng 32%) và 19,6% (cùng kỳ năm ngoái tăng 37%). Từ việc kiểm soát 2 chỉ tiêu chủ yếu này, NHNN đã rút về 1 lượng lớn tiền mặt khỏi lưu thông và từ đó giảm bớt áp lực của sự tăng LP. Việc rút bớt 1 lượng tiền mặt khỏi lưu thống được thực hiện thông qua việc siết chặt các khoản vay ko hiệu quả để tập trung tăng trưởng tín dụng cho SX, XK, cho lĩnh vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn, cho hộ chính sách và đặc biệt là đối với các dự án dang dở có hiệu quả phải đầu tư nhanh để phát huy hiệu quả. Đồng thời NHNN đã linh hoạt kịp thời nới lỏng CSTT bằng cách hạ lãi suất cơ bản, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc… khi có dấu hiệu giảm áp lực LP và tăng trưởng khó khăn, nhất là khi tình trạng suy thoái KT đang lan tỏa ra toàn cầu và có thể tđ mạnh đến nền KT VN trong năm 2009 nếu VN ko có giải pháp ứng phó.